Thịnh Thế Tài (
chữ Hán: 盛世才;
bính âm: Shèng Shìcái;
Wade–Giles: Sheng Shih-ts'ai) (1897 – 13 tháng 7 năm 1970, Đài Loan
[2]) là một lãnh chúa
Trung Hoa từng cai trị
Tân Cương từ ngày 12 tháng 4 năm 1933 đến ngày 29 tháng 8 năm 1944.Sinh tại
Khai Nguyên,
Liêu Ninh, ông từng phục vụ trong
Quốc dân quân. Đầu tiên ông được cử đến Tân Cương dưới quyền Tỉnh trưởng
Kim Thụ Nhân vào năm 1930. Ông trấn áp được
Loạn Kumul (tháng 2 năm 1931 – tháng 10 năm 1931) với sự giúp đỡ của
Liên Xô, nhưng đổi lại là chủ quyền của Tân Cương.Tổng lãnh sự Xô viết tại
Urumqi có vai trò như một viên thái thú bên cạnh Thịnh, buộc Thịnh phải tham vấn người Nga trước khi ra bất kì quyết định gì..
[3][4] Tân Cương trở thành một "vệ tinh của Xô viết", hoàn toàn do Xô viết khống chế.
[5]Năm 1936, sau khi Thịnh Thế Tài trục xuất 20,000 người
Kazakh từ
Tân Cương sang
Thanh Hải, quân Hán Hồi dưới quyền tướng
Mã Bộ Phương đã thẳng tay tàn sát những người Hồi giáo Kazakh này, chỉ còn lại 135 người sống sót.
[6][7]Thịnh tiến hành chiến dịch thanh trừng tại Tân Cương cùng thời điểm với đợt
Đại thanh trừng của
Stalin vào năm 1937 trong
Chiến tranh Tân Cương (1937). Thịnh được mật vụ Xô viết
NKVD hỗ trợ, đã dựng lên một âm mưu
Trotskyist quy mô và một "kế hoạch Trotskyist phát xít" hòng lật đổ Liên Xô. Tổng lãnh sự Xô viết
Garegin Apresoff, các tướng
Mã Hổ Sơn,
Ma Shaowu,
Mahmud Sijan, lãnh tụ Tân Cương trên danh nghĩa
Huang Han-chang, và
Hoja-Niyaz, nằm trong số 435 nhân vật bị cáo buộc trong vụ này. Tân Cương hoàn toàn nằm trong vòng kiểm soát của
Liên Xô. Stalin cũng chống đối
Đảng Cộng sản Trung Quốc.
[8]Theo yêu cầu của
Joseph Stalin, Thịnh gia nhập Đảng Cộng sản Liên Xô vào tháng 8 năm 1938 và nhận được thẻ đảng số 1859118 trực tiếp từ tay Molotov trong chuyến thăm bí mật đến
Moscow. Tân Cương dưới thời Thịnh chỉ là một phần lãnh thổ Trung Quốc trên danh nghĩa, mọi hành động của Thịnh đều do Tổng lãnh sự quán Liên Xô tại Địch Hóa (Hán tự: 迪化, nay là
Urumqi) chỉ thị. Trong những năm tại vị, ông nổi tiếng là kì thị người thiểu số (nhất là người Hồi và người Kazakh), cũng như là người tàn nhẫn và thích sử dụng đòn tra tấn.Đến năm 1942, thấy Liên Xô suy yếu vì
Thế chiến II, ông quay sang chống Xô viết, trục xuất các cố vấn Xô viết và xử tử nhiều đảng viên Cộng sản người Hán, kể cả
Mao Trạch Dân, em trai
Mao Trạch Đông, hòng giành được sự ủng hộ của
Quốc dân đảng. Tuy nhiên, khi chiến tranh xoay chuyển có lợi cho
Liên Xô sau
Trận Stalingrad, Thịnh lại âm mưu loại bỏ Quốc dân đảng và xin viện trợ Xô viết, nêu rõ trong một bức thư của ông gửi cho Stalin. Stalin từ chối giúp đỡ Thịnh, và gửi lá thư của ông cho lãnh tụ Quốc dân đảng
Tưởng Giới Thạch, trong khi Thịnh đánh giá quá thấp tầm ảnh hưởng của Quốc dân đảng tại Tân Cương. Quốc dân đảng loại bỏ Thịnh vào tháng 8 năm 1944.
Trần Lập Phu kể lại những lần gặp gỡ Thịnh trong hồi ký của mình "The storm clouds clear over China: the memoir of Chʻen Li-fu, 1900-1993", theo ông ta, Thịnh rất đa nghi với mọi người xung quanh, đến mức sắp sẵn "súng máy trước tư dinh vào ban đêm... các tủ văn kiện đều khóa kín".
[9]Ông rời Tân Cương vào ngày 11 tháng 9 năm 1944, để nhận chức Bộ trưởng Nông Lâm trong chính quyền
Trung Hoa Dân Quốc. Đi cùng ông là khoảng 50 xe tải, chứa đầy những của cải vơ vét được trong 15 năm tại Tân Cương, bao gồm vàng (khoảng 1,500 kg) và bạc (khoảng 15,000 kg). Sau đó ông trốn sang
Đài Loan cùng Quốc dân đảng vào cuối
Nội chiến Trung Quốc. Năm 1958, ông cùng viết quyển Sinkiang: Pawn or Pivot với Allen S. Whiting.Thịnh có bốn người con hai trai hai gái. Hai con gái của ông được sinh tại Tân Cương.
[10]